Thiết kế Lớp tàu khu trục G và H

Lớp G

Lớp G được đặt hàng như một phần của Chương trình chế tạo hải quân 1933. Thiết kế của chúng hầu như lặp lại lớp F, với sự cắt giảm kích thước đôi chút do loại bỏ turbine chạy đường trường. Vũ khí trang bị cho lớp G giống như của lớp F, sử dụng pháo QF 4,7 inch (120 mm) Mk. IX L/45 đặt trên bệ trụ xoay Mark XVII làm dàn pháo chính; góc nâng tối đa đến 40° được thực hiện bằng cách tạo một phần sàn tàu thấp hơn gọi là "giếng" (well), cho phép khóa nòng hạ thấp bên dưới mức sàn tàu. HMS Glowworm được thử nghiệm với kiểu dàn ống phóng ngư lôi năm nòng PR Mk. I, trong khi các tàu chị em giữ lại kiểu dàn ống phóng bốn nòng Mk.VIII. Mọi chiếc trong lớp G đều có cột ăn-ten trước ba chân và cột ăn-ten chính dạng cọc.

Lớp H

Lớp H được đặt hàng tiếp nối trong Chương trình chế tạo hải quân 1934. Thiết kế hầu như lặp lại lớp G, nhưng tích hợp giải pháp thỏa đáng hơn cho góc nâng của pháo chính bằng cách bố trí lại đầu khóa nòng của khẩu pháo. Vì vậy bệ CP Mk.XVIII vẫn có góc nâng tối đa 40° mà không cần đến "giếng" sàn tàu. Cho dù kiểu ống phóng ngư lôi năm nòng đã sẵn có sau khi thử nghiệm trên HMS Glowworm, chúng không được trang bị do sự lo ngại trọng lượng nặng bên trên. Các cải tiến trong thiết kế và việc sử dụng rộng rãi kỹ thuật hàn đưa đến kết quả giảm trọng lượng choán nước khoảng 50 tấn Anh (51 t).

HMS HeroHMS Hereward được giới thiệu một thiết kế cầu tàu mới, vốn sẽ trở nên tiêu chuẩn trên mọi tàu khu trục hạm đội từ lớp I cho đến lớp Battle năm 1944. Điều này là cần thiết vì HMS Hereward trang bị một kiểu nguyên mẫu pháo 4,7 inch (120 mm) nòng đôi trên bệ CP Mark XIX vốn sẽ được trang bị cho các lớp Tribal, J, K và N. Kiểu vũ khí này có chiều cao trục cao hơn 13 in (33 cm) so với kiểu vũ khí trước, buộc phải nâng cao phòng lái để người lái tàu có thể nhìn ra phía trước. Điều này buộc phải bố trí phòng lái ở phía trước thay vì bên dưới cầu tàu; và nó có các mặt bọc giáp nghiêng, đưa đến một hình nêm đặc trưng và một mái dốc cho phép quan sát được sàn trước từ cầu tàu. Về cấu trúc bên trong, lớp H tương tự như lớp G, ngoại trừ chiếc HMS Hyperion, có một buồng nồi hơi đơn kiểu Johnson nhỏ hơn, nhẹ hơn và tiết kiệm hơn so với thiết kế Admiralty. Tất cả các con tàu đều có các cột ăn-ten trước và sau dạng cột, và được gắn thiết bị quét mìn kiểu TSDS (Two Speed Destroyer Sweeps).

Các soái hạm khu trục

Giống như lớp E và F, các soái hạm khu trục được chế tạo theo một thiết kế mở rộng, tích hợp thêm một khẩu pháo 4,7 inch thứ năm ở vị trí 'Q' giữa hai ống khói. Chúng dựa trên chiếc dẫn đầu của lớp F HMS Faulknor. HMS Grenville hơi ngắn hơn do nó được trang bị nồi hơi kiểu Yarrow đốt hông gọn gàng hơn. HMS Hardy dễ dàng nhận biết với cột ăn-ten trước ba chân. Cả hai đều bị mất sớm trong chiến tranh nên không có được các cải biến vào thời chiến.

Lớp Havant

HMS Hesperus với màu sơn ngụy trang, trình bày một cầu tàu góc nghiêng áp dụng cho Hero, Hereward và những chiếc nguyên của Brasil

Lớp Havant được đặt lườn vào năm 1938 dành cho Brasil. Chúng có cột ăn-ten trước dạng cột và ăn-ten sau dạng ba chân, được hoàn tất mà không có tháp pháo 'Y' ở sàn sau nhằm tăng số lượng mìn sâu mang theo, và ống khói được cắt ngắn để cải thiện góc bắn của vũ khí phòng không. Ban đầu những chiếc lớp Havant chỉ trang bị máy đo tầm xa, nhưng sau này được kết hợp với bộ điều khiển hỏa lực trên cầu tàu, đối nghịch với hai chức năng riêng biệt trên những con tàu nữa chị em. Sau khi đưa vào biên chế cùng Hải quân Hoàng gia, Handy và Hearty được đổi tên tương ứng thành HMS HarvesterHMS Hesperus để tránh nhầm lẫn với HMS Hardy.

Sáu chiếc trong lớp Havant thoạt tiên hình thành nên Chi hạm đội Khu trục 9 của Hạm đội Nhà và được phân công nhiệm vụ chống tàu ngầm tại Scapa Flow.[1] Đến cuối năm 1940, Chi hạm đội 9 được chuyển sang Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây và được đổi tên thành Đội hộ tống 9.[2] Đến tháng 3 năm 1942, năm chiếc lớp Havant còn lại được đặt làm tàu chỉ huy các đội thuộc Lực lượng Hộ tống giữa đại dương suốt mùa Đông 1942-1943.[3][4][5]